Làm Hoàng đế Đường_Đại_Tông

Loại bỏ Lý Phụ Quốc

Ngay sau khi lên ngôi, Đại Tông cho lập con trai trưởng của mình là Phụng Tiết vương Lý Quát làm Thiên hạ binh mã nguyên soái, nắm quyền chỉ huy tối cao các đội quân trong nước.[17] Mẹ ông là Ngô thị được truy phong làm Hoàng thái hậu.

Lý Phụ Quốc ỷ thế có công lập Đại Tông lên ngôi, nên cậy thế lộng quyền, tuyên bố trước mặt ông:

Đại gia (chỉ Đại Tông) chỉ nên an cư ở cấm cung, ngoại sự cứ đế lão nô tự quyết.

Đại Tông vô cùng tức giận, bèn nảy ý loại trừ Phụ Quốc, tuy nhiên tiến hành thật kín đáo. Ngày 24 tháng 5, Đại Tông phong Phụ Quốc làm Thượng phụ rồi Trung thư lệnh (31 tháng 5) và giao cho xử lý mọi việc trong triều, Trình Nguyên Chấn cũng được phong chức Tả giám môn vệ tướng quân. Một số đại thần không ăn cánh với Phụ Quốc bị bắt lưu đày. Trong khi đó, tể tướng Nguyên Tái, dưới sự khống chế của Lý Phụ Quốc, đã tâu xin Đại Tông lưu đày cựu tể tướng Tiêu Hoa làm Tư mã Hạp châu.

Tuy nhiên đến tháng 6 cùng năm, Đại Tông quyết định tước bớt quyền lực của Lý Phụ Quốc, bỏ chức Hành quân tư mã, Binh bộ thượng thư và ép ra ở phủ đệ bên ngoài. Phụ Quốc lo sợ, dâng biểu từ chức lên triều đình, Đại Tông không thèm từ chối, bãi chức Thượng thư lệnh của Phụ Quốc, nhưng sau phong làm Bác Lục vương. Đến ngày 8 tháng 11 năm 762, có thích khách đột nhập vào phủ Lý Phụ Quốc, chém chết Phụ Quốc rồi mang theo thủ cấp cùng một cánh tay của hắn rồi trốn mất. Đại Tông cho điều tra trong một thời gian ngắn rồi nhanh chóng cho kết thúc, do đó có tin đồn thích khách giết Lý Phụ Quốc làm theo lệnh của Đại Tông.[18]. Trình Nguyên Chấn vẫn được nắm quyền lực và tỏ ra lộng quyền, hãm hại nhiều tướng lĩnh khác trong suốt thời gian làm tể tướng.

Chấm dứt loạn An Sử

Sau khi dẹp yên Lý Phụ Quốc, Đại Tông tiếp tục hoàn thành công cuộc dẹp loạn An Sử còn dở dang dưới thời vua cha. Bấy giờ Sử Tư Minh bị con là Sử Triều Nghĩa giết để đoạt ngôi[19], thế lực của quân Yên suy yếu hơn trước, lại vấp phải sự tấn công liên tục của nhà Đường. Sử Triều Nghĩa phải bỏ Lạc Dương, chạy về Tống châu và bị vây hãm, nhưng thế lực vẫn còn. Ngay tháng 6 năm 762, quân của Sử Triều Nghĩa bị Duyện Vận Tiết độ sứ Điền Thần Công đại phá.

Thấy mình liên tiếp thua trận, Sử Triều Nghĩa tìm cách lôi kéo sự ủng hộ của Khả hãn Hồi Hột, vốn là đồng minh của nhà Đường. Đại Tông cũng sai Lưu Thanh Đàm đến thiết lập lại liên minh với Hồi Hột, nhưng bị Đăng Lý Khả hãn hạ nhục. Thanh Đàm từ Hồi Hột gửi thư về báo rằng Hồi Hột đã chuẩn bị 10 vạn quân định kéo về Trường An, toàn thành Trường An đều lo sợ. Đại Tông sai Bộc Cố Hoài Ân đến chiêu dụ. Đăng Lý vốn thân tình với Hoài Ân bèn đổi ý, chấp nhận lập lại liên minh với Đường để chống quân Yên. Đáp lại, Đại Tông sai Ung vương Thích đến Thiểm châu định ước với Hồi Hột. Sau đó, Bộc Cố Hoài Ân cùng tướng Hồi Hột là Tả Sát được cử làm tiên phong thống lĩnh liên quân hai nước, cùng các tướng dưới quyền tiến công mạnh mẽ vào các thành trì cuối cùng của Yên. Tháng 10 năm 762, quân Đường tiến đánh và chiếm Lạc Dương, quân Yên thiệt hại đến 80.000. Triều Nghĩa đành phải bỏ trốn. Quân Hồi Hột nhân cơ hội vào Lạc Dương đã thẳng tay cướp bóc và chém giết người dân, khiến Đông Đô trở nên hoang tàn.

Sử Triều Nghĩa liên tiếp thất bại, cuối cùng bị tướng cũ là Lý Hoài Tiên truy đuổi đến đường cùng, phải tự tử trong rừng. Loạn An Sử chính thức được dẹp yên. Các Tiết độ sứ nước Yên đều xin hàng nhà Đường, như Trương Hiếu Trung, Tiết Tung, Trương Trung Chí (sau Đại Tông đổi tên thành Lý Bảo Thần)[20], Điền Thừa Tự, Lý Hoài Tiên. Đại Tông theo thỉnh cầu của Bộc Cố Hoài Ân, hạ lệnh giữ nguyên chức vị của các Tiết độ sứ này và vẫn cho họ cai quản các trấn ở phía bắc.

Đối phó với Thổ Phiên

Mùa thu năm 763, theo thỉnh cầu của quần thần, Đại Tông tự xưng tôn hiệu là Bảo Ứng Nguyên Thánh Văn Vũ Hiếu hoàng đế. Không lâu sau, Thổ Phiên bất ngờ cho quân tấn công vào các châu gần biên giới. Các tướng lũ lượt cáo cấp về triều, song Trình Nguyên Chấn giấu giếm không báo với Đại Tông[21]. Đến tháng 11, Thổ Phiên tiến vào Kính châu rồi Bân châu thì Đại Tông mới hay tin. Trong lúc triều đình chưa nghĩ ra cách đối phó thì Thổ Phiên chiếm tiếp các vùng Phụng Thiên, Vũ Tông, uy hiếp kinh sư. Đại Tông mới cử Lý Quát cùng Quách Tử Nghi dẫn quân ra Hàm Dương chống 20 vạn quân Thổ. Quách Tử Nghi sai người vào triều xin viện binh nhưng Trình Nguyên Chấn vốn ghét Tử Nghi, nên không cho. Quân Đường lại thất bại thêm mấy trận, Quách Tử Nghi phải bỏ Hàm Dương về kinh. Ngày 16 tháng 11, Đại Tông thấy Thổ Phiên đã đến rất gần, lại không thấy có viện binh đến, bèn quyết định trốn khỏi Trường An, đến Thiểm Châu. Một số thân vương triều Đường, dẫn đầu là Lý Củng (con của Đường Huyền Tông) định rước Thổ Phiên vào kinh. Quách Tử Nghi đem binh về kinh, bắt được các thân vương mưu phản, giao đến cho Đại Tông. Đại Tông ép Phong vương Lý Củng phải tự sát.[22].

Cuối năm đó, Thổ Phiên tiến vào Trường An. Tướng Phiên Mã Trọng Anh ban lệnh lập cháu đời thư năm của Đường Cao Tông, cháu nội Bân vương Lý Thủ Lễ là Quảng Vũ vương Lý Thừa Hoành làm hoàng đế. Quân Thổ Phiên vơ vét hết của cải trong phủ khố và cướp bóc của dân, khiến lòng người oán hận.

Đại Tông phong Quách Tử Nghi làm Phó nguyên soái Quan Nội, hợp quân ở Thương châu. Các Tiết độ sứ cũng nhanh chóng đưa quân đến cứu giá. Tử Nghi cho tiến quân từ Lam Điền đến Trường An, rồi dùng kế nghi binh, phô trương thanh thế khiến Thổ Phiên hoảng sợ. Sau hơn 10 ngày đóng ở Trường An, Thổ Phiên cho lui quân vào ngày 30 tháng 11, tuy nhiên các châu ở vùng Kiếm Nam rơi vào tay Thổ Phiên, nhà Đường không giành lại được. Sau việc này, Đại Tông trị tội dối vua của tể tướng Trình Nguyên Chấn, tước hết quan tước và đuổi khỏi triều đình; còn Ngụy hoàng đế Lý Thừa Hoành bị đày đến Hoa châu. Từ đó, quyền lực trong triều rơi vào tay tể tướng Nguyên Tái cùng hoạn quan Ngư Triều Ân.

Đối phó với Bộc Cố Hoài Ân

Từ sau khi đưa quân dẹp loạn An Sử, thế lực của Bộc Cố Hoài Ân ngày càng to, nắm trọn phần lớn đất Hà Bắc và Sóc Phương. Nhờ cầm quân lâu năm, Hoài Ân đã chiêu dụ được nhiều tướng lĩnh và binh sĩ về phe mình, bắt đầu này ý phản loạn. Từ sau khi thiết lập liên minh với Hồi Hột, nhiều tướng nghi ngại rằng Hoài Ân là cha vợ của Khả hãn Đăng Lý nên ngấm ngầm kết giao với Hồi Hột, có Tân Vân Kinh và Lạc Phụng Tiên sớ tố cáo lên Đại Tông. Đại Tông nể sợ thế lực của Hoài Ân, nên thường cố tình cho qua không hỏi đến, nhưng cũng không trị tội những người tố cáo Hoài Ân khiến Hoài Ân sinh ra bất mãn. Năm 764, Đại Tông phong Ung vương Lý Quát làm Hoàng thái tử. Mẹ của Thái tử là phu nhân Thẩm thị bị mất tích sau loạn An Sử, Đại Tông nhiều lần sai sứ tìm kiếm mà không có kết quả[23].

Tháng hai năm 764, Đại Tông sai Nhan Chân Khanh đến triệu Bộc Cố Hoài Ân về triều, nhưng sợ Hoài Ân không theo; bèn hỏi kế của Phần Châu biệt giá Lý Bão Chân rồi quyết định phong Quách Tử Nghi, người mà Hoài Ân e ngại, làm Tiết độ sứ Sóc Phương để khiến Hoài Ân lo sợ mà phải về triều hỏi nguyên do. Nhưng Hoài Ân lúc này đang nắm giữ Hà Đông[24], lại liên kết với Lý Kiệt Thành mưu phản Đường, trước tiên chiếm Thái Nguyên, nhưng việc bị Tân Vân Kinh phát hiện. Đại Tông lại phong Quách Tử Nghi làm Quan Nội, Hà Đông phó soái, Hà Trung Tiết độ đẳng sứ rồi Sóc Phương tiết độ đại sứ để đánh diệt. Tướng sĩ của Hoài Ân nghe tin tỏ ra dao động và bỏ sang hàng Tử Nghi, trong khi con trai của Hoài Ân là Bộc Cố Sướng bị quân Đường giết chết. Hoài Ân lo sợ, bèn bỏ chạy về Linh Vũ[25].

Bộc Cố Hoài Ân ở Linh Vũ đã tập hợp lại lực lượng. Đại Tông nhiều lần sai sứ đến thuyết phục Hoài Ân quy phục nhưng không có kết quả. Sau đó, Hoài Ân lại liên kết với 10 vạn quân Hồi HộtThổ Phiên xâm chiếm các đất ở biên cương, chiếm được Phụng Thiên [26]. Đại Tông lại cử Quách Tử Nghi thu phục lại Phụng Thiên. Quân Thổ Phiên bị quân của Quách Tử Nghi đánh bại nhiều trận, cuối cùng sợ hãi rút quân về nước. Trong khi Hoài Ân đang nổi dậy thì trong triều, Khoảng thời gian này, tướng Lưu Yên thực hiện công trình khai thông Bân Giang để thiết lập lại con đường vận chuyển lương thực từ Lạc Dương qua Hoàng Hà, Hoài Hà đến Trường An, Trường An lại có nguồn cung cấp thực phẩm đầy đủ. Sau trận thắng Hoài Ân, Đại Tông muốn phong Quách Tử Nghi làm Thượng thư lệnh, một chức vụ mà trước đó chỉ có Đường Thái Tông từng đảm nhận, nhưng Tử Nghi từ tạ không nhận[27].

Tháng 9 năm 765, Bộc Cố Hoài Ân lại dẫn theo quân Hồi Hột, Thổ Phiên, Đảng Hạng, Thổ Cốc Hồn tổng cộng đến hơn 100.000 người nói dối họ là Quách Tử Nghi đã qua đời nên cùng nhau vào đánh nhà Đường. Thành Trường An lại bị uy hiếp, Đại Tông cử Quách Tử Nghi từ Kim Dương ra chống. Giữa lúc đó Hoài Ân bệnh chết, Quách Tử Nghi kích động Hồi Hột trở mặt với Thổ Phiên. Liên quân Đường và Hồi Hột nhân đêm tối truy kích, khiến Thổ Phiên thất bại nặng nề, phải tháo lui. Cuộc nổi loạn của Bộc Cố Hoài Ân đến đó là dứt.

Sang năm 767, Thổ Phiên vẫn quấy nhiễu biên giới nhà Đường. Quách Tử Nghi giữ chức Phó nguyên soái, đóng quân ở Hà Trung[28] và Mân Châu, lãnh trách nhiệm phòng thủ khiến quân địch không vào được. Trong những năm sau đó, Thổ Phiên thường xâm phạm biên giới nhưng bị đánh bại luôn, không thể vào sâu như trước.

Trước sự trỗi dậy của Phiên trấn

Tết Nguyên đán năm 765, Đại Tông cải nguyên là Vĩnh Thái. Trong thời gian này, phiên trấn các nơi bắt đầu phát triển thế lực và từng bước li khai với triều đình. Tiết độ sứ Bình Lư Hầu Hi Dật bị bộ tướng Lý Chánh Chỉ trục xuất. Chánh Kỉ nắm quyền ở Bình Lư, kết thông gia với Tiết Độ sứ Đông Đạo Lương Sùng Nghĩa để hỗ trợ lẫn nhau. Còn ở Hà Bắc, có thế lực của Tiết độ sứ Thành Đức Lý Bảo Thần, Tiết độ sứ Ngụy Bác Điền Thừa Tự, Tiết độ sứ Tương Vệ Tiết Tung, Tiết độ sứ Lư Long Lý Hoài Tiên, trấn nào cũng có hơn vạn binh. Các trấn ỷ có thế lực lớn, tỏ ra khinh thường quan lại triều đình. Triều đình ngày càng bất lực, không thể ức chế được.

Tháng 5 năm 765, Tiết độ sứ Kiếm Nam là Sử Nghiêm Vũ chết, Đại Tông cử Quách Anh Nghệ đến thay làm Tiết độ sứ, nhưng Anh Nghệ bị tướng dưới quyền Thôi Cán chống lại rồi bị giết. Các tướng thân tín của Quách Anh Nghệ lấy cớ báo thù, đem quân đánh Thôi Cán. Năm 766, triều đình cử Đỗ Hồng Tiệm đến Thục dẹp loạn, lại phong Trương Hiến Thành làm Tiết độ sứ ở Kiếm Nam và Đông Xuyên, cho Thôi Cán làm thứ sử Mậu Châu. Tháng 3 ÂL năm đó, quân của Thôi Cán đánh tan quân của Hiến Thành. Đỗ Hồng Tiệm vừa đến Thục, nghe tin đó vội lấy lòng của Thôi Cán, rồi tấu về triều cho Thôi Cán làm Tiết độ sứ, các tướng trung thành với Anh Nghệ bị đưa đến các châu khác.[29]

Cũng năm 766, Giám quân Thiểm châu Vương Chí Bân bị Chu Trí Quang ám sát. Đại Tông cũng công nhận Trí Quang nắm việc quân ở Thiểm châu, nhưng Trí Quang tỏ ra khinh thường, không chịu nhận. Quách Tử Nghi nhiều lần xin đưa quân thảo phạt, Đại Tông không thuận. Mãi đến đầu năm 767, Đại Tông mới cho Quách Tử Nghi thảo phạt Chu Trí Quang và đánh dẹp được. Tháng 4 năm 768, Trương Hiến Thành bị bệnh, cử em là Hiến Cung lên thay làm Tiết độ sứ, Đại Tông chính thức công nhận.

Năm 768, Lý Hoài Tiên ở Lư Long[30] bị thủ hạ là Chu Hi Thải và Chu Thử, Chu Thao (em Chu Thử) ám sát. Hi Thải tự xưng Lư Long lưu hậu. Lý Bảo Thần ở Thành Đức đem quân thảo phạt (nhưng thất bại), triều đình cũng cử Vương Tấn đến Lư Long làm Tiết độ sứ để trấn áp, Chu Hi Thải dùng nghiêm binh uy hiếp, Vương Tấn lượng sức không chống lại được, bèn quyết định trở về kinh. Cuối năm đó, Đại Tông buộc phải cho Hi Thải làm Tiết độ sứ Lư Long. Đến đầu năm 770, Đại Tông lệnh cho Nguyên Tái dời Lý Bão Ngọc làm Sơn Nam Tây Đạo tiết độ sứ, dời đến Trưu Trất. Quân sĩ ở Phượng Tường vốn trung thành với Bão Ngọc, nghe tin bèn đốt phá Phượng Tường trong một vài ngày mới thôi.

Tình hình trong triều

Trong lúc đó tại triều đình, Nguyên Tái nắm quyền, tỏ ra cực kì gian manh và xa xỉ. Sợ các quan đàn hặc mình với Đại Tông, Nguyên Tái tâu rằng mọi việc đại thần trình báo nên thông qua tể tướng rồi mới tâu lên hoàng thượng, nhưng Hình bộ thượng thư Nhan Chân Khanh phản đối, cuối cùng sự việc bị bãi bỏ. Do đó Nguyên Tái oán Chân Khanh, bèn vu tội rồi lưu đày Chân Khanh[31].

Trong lúc đó hoạn quan Ngư Triều Ân ngày càng được tin dùng, đến năm 766 đã leo đến chức Nội thị giám, cai quản Quốc tử giám. Trong khi Quách Tử Nghi vẫn được tín nhiệm. Sau khi Tử Nghi trở về từ trận thắng Chu Trí Quang, Đại Tông sai tể tướng Nguyên Tái, Vương TấnNgư Triều Ân đến phủ ban rượu cho Tử Nghi, và ra lệnh cho đại thần phải tránh không nói đến tên ông.

Trong khi đó, Đại Tông cũng trở nên tin tưởng quá mực vào đạo Phật do ảnh hưởng của ba vị tể tướng Nguyên Tái, Vương TấnĐỗ Hồng Tiệm. Ông tin rằng nhờ Phật phù hộ mà nhà Đường thoát khỏi nguy cơ diệt vong sau loạn An Sử và cuộc nổi dậy của Bộc Cố Hoài Ân, nên càng tin vào đạo Phật, thường bố trí hơn 100 tăng vào cung cấm. Có vị tăng còn được phong tới chức Khanh giám và được phong Quốc công[32] và được tự do ra vào cung. Các nhà sư cũng không phải chịu cực hình nào nếu phạm tội và chùa chiền được xây dựng khắp nỏi, ngôi chùa nào cũng giàu của cải. Bọn Nguyên Tái lúc nào cũng bàn về Đạo Phật và Đạo Phật trở thành tôn giáo có ảnh hưởng nhất khắp Trung Quốc bấy giờ. Năm 768, Đại Tông truy phong Kiến Ninh vương Lý Đàm là Thừa Thiên hoàng đế.

Ngư Triều Ân tỏ ra ganh ghét Quách Tử Nghi, vào năm 767, nhân khi Quách Tử Nghi cầm quân ở ngoài, Triều Ân đã sai thủ hạ đi đào mộ tổ tiên họ Quách. Đại Tông lo lắng Tử Nghi sẽ bất mãn làm phản nhưng Tử Nghi về triều bày tỏ lòng trung thành, Đại Tông khen ngợi Tử Nghi và không lo lắng nữa. Năm 769, tể tướng Đỗ Hồng Tiệm chết. Đại Tông phong Bùi Miện lên thay làm Đồng bình chương sự, nhưng cuối năm đó Bùi Miện cũng quy tiên.

Nguyên Tái căm thù Ngư Triều Ân, nên dùng tiền mua chuộc thủ hạ của Triều Ân là Hoàng Phụ ÔnChu Hạo để họ trở thành nội gián cho mình. Do đó những việc làm của Triều Ân bị Nguyên Tái nắm rõ. Trong khi Đại Tông chán ngán Ngư Triều Ân lộng quyền, bèn cùng Nguyên Tái tìm kế trừ đi. Sang tháng 4 năm 770, trong ngày tết hàn thực, Đại Tông thiết yến trong cung và mời Triều Ân tới dự. Khi Triều Ân đến, phục binh bố trí bên trong xông ra giết chết ông ta. Từ đây Nguyên Tái một mình nắm giữ triều chính và ngày càng lộng quyền. Nhiều đại thần bất bình, dâng sớ tố cáo lên Đại Tông nhưng đều bị Nguyên Tái chặn họng và hãm hại. Về phần Đại Tông cũng bắt đầu nghi ngờ Nguyên Tái nên bí mật có phòng bị.

Tình hình các trấn sau năm 770

Mùa hạ năm 770, Tiết độ sứ Kinh Nam Vệ Bá Ngọc có tang mẹ, triều đình cử Vương Ngang đến thay. Bá Ngọc không chấp nhận, sai tướng chống lại Vương Ngang. Đại Tông đành hạ chiếu khôi phục chức Tiết độ sứ cho Vệ Bá Ngọc.[32]

Trong các năm 772 đến 774, quân Hồi Hột nhiều lần tiến sang công phá chùa Hồng Lư, bắt một số người, lại còn giao tranh với sở ti ở đó. Đại Tông phải sai sứ đến dụ Hồi Hột lui về. Trong khi đó, Thổ Phiên ngày càng lớn mạnh, mỗi năm đều tiến sang xâm phạm Trung Nguyên, triều đình không sao trừ được hẳn.

Tháng 8 năm 772, Tiết độ sứ Lư Long Chu Hi Thải bị tướng dưới quyền Lý Hoài Viện giết chết. Chu Thử đem quân dẹp loạn rồi tự xưng là lưu hậu ở Lư Long.[33]. Sau này Chu Thử đến Trường An làm quan trong triều, trấn Lư Long giao cho Chu Thao cai quản. Sau này Chu Thử rất được Đại Tông tin tưởng, phong làm Đồng bình chương sự (776) đến thời Đức Tông thì nổi loạn chống Đường.

Năm 773, Tiết độ sứ Chiêu Nghĩa[34] Tiêu Tung hoăng, người em là Tiêu Ế tự lập lên thay, triều đình buộc phải công nhận Tiêu Ế là Chiêu Nghĩa lưu hậu. Sau đó Tiết độ sứ Vĩnh Bình Lệnh Hồ Chương cũng mất, có chiếu phong Lý Miễn đến thay chức. Trong khi đó Điền Thừa Tự ở Ngụy Bác[35] thế lực ngày càng lớn, lại muốn sau khi mình mất thì cho con lên thay làm Tiết độ sứ. Để lấy lòng Điền Thừa Tự, Đại Tông đem con gái là công chúa Vĩnh Lạc gả cho con trai Thừa Tự là Điền Hoa (774), nhưng Thừa Tự lại ỷ thế đó trở nên kiêu ngạo hơn.

Tháng 1 năm 775, Điền Thừa Tự dụ tướng lại ở Chiêu Nghĩa nổi loạn. Được Thừa Tự khuyến khích, tướng Bùi Chí Thanh đuổi Chiêu Nghĩa lưu hậu Tiết Ngạc rồi đi theo Thừa Tự. Tiêu Ế bỏ chạy, Thừa Tự lại nhân đó đưa quân tiến công vào Tương châu và Bôn châu thuộc trấn Chiêu Nghĩa. Đại Tông sai người đến tuyên chỉ bảo Thừa Tự không nên gây chiến nhưng Thừa Tự không nghe. Sau đó, quân Ngụy Bác liên tiếp chiếm được các châu Cứ, Tương, Vệ và khống chế các châu này, cử tướng thân tín trấn giữ, do đó trấn Ngụy Bác được mở rộng và ngày một lớn mạnh hơn. Các châu còn lại thuộc Chiêu Nghĩa do triều đình quản lý.

Tháng 3, quân ở Thiểm Châu nổi dậy đuổi binh mã sử Triệu Lệnh Trâm. Đại Tông sai Hoài Tây Tiết độ sứ Lý Trung Thần đến xét xử. Trong khi đó, Điền Thừa Tự có hiềm khích với Lý Bảo Thần nên Bảo Thần dâng biểu xin triều đình đánh dẹp Thừa Tự. Vua sai quân các trấn xung quanh kéo đến tấn công Ngụy Bác. Ban đầu, quân các trấn đại thắng quân Ngụy Bác nhiều trận. Đúng lúc đó, Đại Tông sai Mã Thừa Sai đến chỗ Lý Bảo Thần để khao quân và thưởng công. Bảo Thần mang quà tặng Thừa Sai nhưng Thừa Sai tỏ ra không hài lòng và ném xuống đất, khiến Bảo Thần tức giận. Điền Thừa Tự chớp cơ hội, sai sứ thuyết phục Lý Bảo Thần liên kết lại với mình, hứa nhường Thương châu và hẹn cùng tấn công Lư Long. Lý Bảo Thần bằng lòng, liên kết với Thừa Tự quay sang chống Chu Thao ở Lư Long, nhưng cuối cùng không thắng được, hai bên lui quân. Thấy Lý Bảo Thần lại liên minh với Điền Thừa Tự, nên sang năm 776, Đại Tông phải hạ chiếu xá tội cho Thừa Tự, phục quan tước.

Cùng năm đó, Lý Linh Diệu đang giữ chức Biện Tống[36] lưu hậu và Lý Tăng Huệ nổi dậy, triều đình sai Lý Trung Thần và Mã Toại đem quân đánh dẹp, đánh bại quân của Linh Diệu một vài trận. Điền Thừa Tự lại sai Điền Duyện đến cứu Lý Linh Diệu, nhưng cũng thành công, Linh Diệu bị quân Đường bắt sống và bị giết.

Để trị tội Điền Thừa Tự giúp Lý Linh Diệu, Đại Tông sai bãi chức, Thừa Tự bèn thượng biểu tạ tội, Đại Tông cho phục nguyên chức. Từ năm 777 trên toàn cõi Trung Quốc xuất hiện các phiên trấn có thế lực lớn và đã bán li khai với triều đình

  1. Tiết độ sứ Bình Lư Lý Chính Kỉ nắm 15 châu và 60.000 quân
  2. Tiết độ sứ Ngụy Bác Điền Thừa Tự nắm 7 châu và 50.000 quân
  3. Tiết độ sứ Thành Đức Lý Bảo Thần nắm 7 châu và 50.000 quân
  4. Tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo[37] Lương Sùng Nghĩa nắm 6 châu và 25.000 quân

Cuối đời

Năm 775, ái thiếp của Đại Tông là Nhất phẩm hậu cung Quý phi Độc Cô thị qua đời, ông vô cùng thương xót, lập tức hạ chiếu truy phong làm Trinh Ý hoàng hậu (贞懿皇后) và giữ thi thể lại trong cung, đến năm 778 mới cho an táng ở Trang Lăng[38].

Năm 777, do quá chán ngán Nguyên Tái cùng Vương Tấn lộng quyền, Đại Tông cùng cậu là Ngô Thấu lập mưu trừ khử. Sau có thư tố cáo Nguyên TáiVương Tấn có mưu đồ soán ngôi, Đại Tông lập tức ra lệnh bắt hai người lại, tống vào ngục rồi ép Nguyên Tái tự tận[39], lưu đày Vương Tấn, bổ nhiệm Dương Oản, Thường Cổn là tể tướng mới. Bè đảng của Nguyên Tái hầu hết bị lưu đày ra các châu. Đại Tông muốn dùng Dương Oản để cải cách chính trị và kinh tế, nhưng tiếc rằng đến tháng 8 năm 777, Dương Oản lại qua đời, tại vị mới khoảng ba tháng. Đại Tông thương tiếc, than rằng trời không muốn thấy cảnh thái bình mới lấy mất tướng hiền Dương Oản.

Tháng 2 năm 779, Điền Thừa Tự qua đời, cháu là Điền Duyệt tự xưng Ngụy Bác lưu hậu. Đại Tông quyết định công nhận Điền Duyệt. Không lâu sau Lý Trung Thần ở Hoài Tây bị bộ tướng Lý Hi Liệt chống lại, phải bỏ trốn đến Trường An. Đại Tông phong Lý Trung Thần làm tể tướng, và đồng ý cho Lý Hi Liệt làm Hoài Tây lưu hậu.

Ngày Quý Mão (3) tháng 5 (tức ngày 23 tháng 5), Đại Tông lâm bệnh nặng, đến ngày Tân Dậu (21) cùng tháng (tức ngày 10 tháng 6), ông hạ lệnh để Thái tử Lý Quát giám quốc. Cùng hôm đó, Đại Tông băng hà ở Tử Thần điện (紫宸殿). Hoàng thái tử Lý Quát đăng cơ, tức Đường Đức Tông[38][40], Tân Đế dâng thụy hiệu cho Đại Hành hoàng đế là Duệ Văn Hiếu Vũ hoàng đế (睿文孝武皇帝), an táng ở Nguyên lăng (元陵).